Đông Á và Đông Nam Á Nhà nước kiến tạo phát triển

Một vài triển vọng về tăng trưởng kinh tế trong một vài thập niên trở lại đây được tìm thấy ở khu vực Đông ÁĐông Nam Á.[4] Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Hồng Kông, Singapore, Ấn Độ, Thái Lan, Đài Loan, Việt Nam, Malaysia, Philippines, và Indonesia đang phát triển ở mức độ cao và vừa. Thái Lan, là một ví dụ, đã tăng trưởng hai con số từ đầu những năm 1980. Trung Quốc đã trở thành quốc gia dẫn đầu trong tăng trưởng kinh tế từ 2001 đến 2015. Thống kê cho rằng Anh phải mất 60 năm để tăng trưởng gấp đôi nên kinh tế khi cách mạng Công nghiệp bắt đầu. Thống kê cũng cho rằng Hoa Kỳ cũng phải mất gần 50 năm để tăng trưởng gấp đôi nền kinh tế khi nên kinh tế Hoa Kỳ cất cánh vào cuối thế kỷ 19. Các quốc gia Đông và Đông Nam châu Á gần đây đang tăng trưởng gấp đôi nền kinh tế của họ chỉ trong mỗi 10 năm.[7]

Điều quan trọng để chú ý về các quốc gia châu Á này là nó không phải là người giàu trở nên giàu hơn, mà là nghèo trở nên ít nghèo hơn. Ví dụ, tỷ lệ nghèo đã giảm mạnh ở Thái Lan. Nghiên cứu trong những năm 1960 cho thấy là 60 phần trăm người Thái Lan sống trong tình trạng dưới mức độ nghèo cũng như không có điều kiện cần thiết. Cho tới năm 2004, tuy nhiên, một ước tính giống vậy cho rằng tỷ lệ nghèo còn khoảng 13 đến 15 phần trăm. Thái Lan được vinh danh bởi ngân hàng Thế giới khi có được thành tích giảm nghèo trong khi tăng thu nhập quốc dân.[8][9][10]

Khi nhìn qua ống kính của thuyết lệ thuộc, kiến tạo phát triển đều nói về các quốc gia như Thái Lan, Đài Loan, Malaysia, Nhật Bản, Hàn Quốc, và Việt Nam, khi chính phủ các quốc gia này có thể sẵn sàng bảo vệ người dân của họ khỏi các vấn đề tiêu cực phát sinh từ sự bóc lột của các tập đoàn nước ngoài. Họ có khuynh hướng trở thành chính phủ mạnh, còn được gọi là "chính phủ kiến tạo" hoặc "nhà nước kiến tạo phát triển", và có được lãnh đạo có thể đương đầu với các công ty đa quốc gia và yêu cầu họ chấp hành đề nghị của người dân. Những "chính phủ kiến tạo" này sẽ sẵn lòng tạo ra và giữ vững những chính sách dẫn đến sự phát triển lâu dài để phục vụ tất cả người dân, không phải chỉ là người giàu. Khi các công ty đa quốc gia được điều tiết, họ sẽ chấp thành tiêu chuẩn địa phương trong việc trả công và điều kiện lao động, trả thuế, đồng thời phải tạo ra lợi nhuận cho đất nước.

Nói một cách cụ thể, điều làm ra chính phủ kiến tạo là chính phủ phải có một bộ máy tổ chức chặt chẽ và có quyền lực đạt được mục tiêu nó mong muốn.[11][12][13][14] Phải có một nhà nước có khả năng lãnh đạo nền kinh tế lâu dài và tổ chức một cách hiệu quả và có lý, cũng như quyền lực hỗ trợ chính sách kinh tế dài hạn. Tất cả những điều này đều quan trọng bởi vì nhà nước phải có khả năng chịu được sự yêu cầu bên ngoài của các công ty đa quốc gia để làm việc ngắn hạn với họ, cũng như vượt qua được sự kháng cự bên trong từ các nhóm có uy tín cố gắng bảo vệ những lợi ích ngắn hạn này, và điều chỉnh sự tranh chấp bên trong quốc gia liên quan đến ai sẽ là người có lợi nhiều nhất từ dự án phát triển này. Tại các nước Đông Á, nhà nước kiến tạo phát triển được lãnh đạo bởi một nhóm nhỏ quan chức tinh hoa được tuyển dụng từ những tài năng quản lý tốt nhất, những người đã đưa ra những chính sách công nghiệp hóa. Nhóm lãnh đạo này ban hành và thực hiện những chính sách công nghiệp không thay thế thị trường mà hợp lý hóa thị trường trong dài hạn với điều kiện nền chính trị cho phép giới tinh hoa ban hành và thực thi chính sách của họ.[15]

Nhật Bản

Nhật Bản là trường hợp được nghiên cứu đầu tiên bởi Chalmers Johnson và là cơ sở chính cho sự hình thành ban đầu của khái niệm “Nhà nước kiến tạo phát triển”. Johnson, mặc dù dùng thuật ngữ “Mô hình Nhật Bản”, cũng đã cảnh báo về sự khái quát quá mức nếu chỉ dựa vào nghiên cứu Nhật Bản. Nói cách khác, việc gọi cách thức mà Chính phủ Nhật định hướng và dẫn dắt phát triển kinh tế là một “mô hình” cần phải được dùng một cách thận trọng vì tính khái quát lý thuyết còn rất thấp và do vậy tiếp tục nghiên cứu các trường hợp tương tự ở các nước NIC Đông Á cũng như tại chính nước Nhật. Các đặc điểm của mô hình Nhật Bản sau này cũng được đối chiếu và phân tích trong các trường hợp khác, đặc biệt là tại các nước NIC Đông Á.[16]

Thái Lan

Vào cuối những năm 1990, một nghiên cứu được thực hiện bằng cách phỏng vấn 24 người doanh nghiệp lớn ở Thái Lan được sở hữu bởi tập đoàn Nhật Bản và Hoa Kỳ. Họ cho rằng đa số các người lao động trong những tập đoàn này làm nhiều hơn trung bình ở Thái Lan, và lương tối thiểu là $4,40 vào thời điểm này. Từ phân tích của các nhà nghiên cứu từ 1.000 bản câu hỏi cho thấy người lao động có lương thu và lợi ích cao hơn trung bình so với công ty được sở hữu bởi người Thái. Họ tìm thấy điều kiện lao động trong tất cả 24 công ty điều không hợp tiêu chuẩn trong đó có Nike ở Đông Nam Á.[17]

Một người trả lời cho sự không nhất quán tìm thấy giữa các công ty đa quốc gia ở Thái Lan và điều kiện lao động của Nike là các công ty như Walmart, The Gap, hoặc Nike đều thầu lại công việc tại các xưởng, nhà máy địa phương. Những hợp đồng này như vô hình, làm cho nó dễ dàng có thể hối lộ được quan chức địa phương để giữ lấy điều kiện lao động nghèo nàn. Khi mà các công ty đa quốc gia kinh doanh ở các quốc gia như Malaysia, Đài Loan, hoặc Thái Lan, tầm nhìn của họ là làm các công nhân có mức tiền lương cao hơn nhưng điều kiện lao động thì dưới mức tiêu chuẩn của quốc gia đó.[18]

Thái Lan bị rơi vào cạm bẫy của mô hình Hoa Kỳ khi chính phủ có ít sự can thiệp trong chính sách kinh tế, trong khi Nhật Bản phải quản lý với bàn tay nặng hơn 100 năm.[19][20] Một điểm mạnh của chính sách phát triển Thái Lan là công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu. Từ đây, một chính phủ kiến tạo phải có quyền nói các công ty đa quốc gia rằng hàng hóa sẽ được nhập khẩu, nếu không làm thế cũng được, với thuế quan cao khoảng 80 tới 150 phần trăm để ngăn chặn những hàng hóa này cạnh tranh với những hàng hóa được làm ở những doanh nghiệp non ở các quốc gia còn nghèo. Chỉ những nhà nước kiến tạo mới có sức ảnh hưởng để thi hành một đạo luật như vậy trên những công ty đa quốc gia giàu (và chính phủ của họ), và chỉ những nhà nước kiến tạo mới có sức ảnh hưởng để tạo ra được một chính sách kháng lại yêu cầu của những người dân giàu của chính họ, những người dân giàu này thường sẽ chọn hàng nhập khẩu và mong muốn chúng ở giá rẻ hơn, mà không cần phải chờ đợi các doanh nghiệp non trẻ phải sản xuất sản phẩm phù hợp. Thái Lan bắt đầu đặt thuế quan 150 phần trăm của ô tô, nhưng tại cùng thời điểm nói với công ty ô tô nước ngoài rằng nếu họ đến Thái Lan để liên doanh với các công ty Thái để sản xuất xe hơi thì phải thuê công nhân Thái, trả thuế Thái, và giữ một phần lợi nhuận cho công ty Thái, những công ty đa quốc gia này sẽ được nhiều quyền lợi hơn từ chính phủ.[19]

Thái Lan tiếp tục bảo vệ kinh tế của họ trong giai đoạn từ những năm 1980 đến 1990, mặc dù cơn lũ đầu tư đang được diễn ra. Công chức người Thái tạo ra những quy tắc như là có những người công chức yêu cầu một lượng phần trăm lớn hàng hóa trong nước được sản xuất chế tạo bởi công ty nước ngoài ở Thái Lan và quy tắc 51 phần trăm.[19] Trong quy tắc 51 phần trăm, tập đoàn đa quốc gia muốn hoạt động chiến dịch ở Thái Lan phải liên doanh với công ty Thái. Kết quả là công ty Thái với 51 phần trăm quản lý tốt hơn khi giữ công việclợi nhuận tại nước. Các quốc gia như là Thái Lan giữ được vốn đầu tư nước ngoài khỏi sự mất mát bởi vì chính phủ duy trì được vốn đầu tư công trình hạ tầng xã hội, cung cấp vận tải hàng hóa và lực lượng lao động tri thức, nâng cao năng suất lao động.

Singapore

Singapore là một nhà nước tương đối trẻ và nó có được danh hiệu là nước phát triển. Mặc dù đất nước này ít tài nguyên và môi trường địa lý khắc nghiệt, nó đã tăng trưởng kinh tế như một chính phủ kiến tạo. Vào năm 1965, Singapore giành được độc lập thành công khỏi Liên bang Mã Lai, và sau đó thay đổi triết lý kinh tế Fordism trước đó thành nhà nước kiến tạo từ gần nửa thế kỷ trước (Kwon, 2005).[21]

Đảng Hành động Nhân dân (PAP) cầm quyền và quản lý Singapore kể từ 1965, sự chuyển mình thay đổi sang nhà nước kiến tạo ở Singapore bởi vì tính chất độc đáo của xã hội, chính trị, địa lý, và điều kiện kinh tế. Lúc đầu, chiến thuật kinh tế của PAP là cung cấp lao động giá rẻ có kỷ luật và tình hình chính trị ổn định; Singapore có duy nhất một hội lao dộng được dẫn dắt trực tiếp bởi chính phủ PAP. Kết quả là, nhiều tập đoàn đa quốc gia (MNC) đầu tư vào Singapore và Singapore sớm trở thành công xưởng chế tạo đáng tin cậy (Sung, 2006).[22]

Tuy nhiên, PAP sớm nhận ra rằng nếu Singapore tiếp tục công nghiệp hóa thì nó cần phải cải thiện giáo dục quốc gia. Vào năm 1960, giáo dục của Singapore được tách ra theo chủng tộc, ngôn ngữ và lối sống (Wilson, 1978).[23] Vì vậy, một chuỗi các dự án giáo dục được đưa ra và thực hiện với hy vọng là giúp Singapore đạt được công nghiệp hóa. Ví dụ, vào năm 1970, trường đào tạo doanh nghiệp và hướng nghiệp (VITB) đã được xây dựng và đi vào hoạt động để cung cấp giáo dục về kỹ thuật cho người lao động đã bỏ học ở trường cấp hai. (Sung, 2006)[22] Chương trình đào tạo nguồn nhân lực của Singapore có nhiều chức năng khác với những thành phố thuộc chủ nghĩa tự do mới; những chương trình này trùng với kỹ năng của người lao động đến thị trường. Kinh tế được quy hoạch bởi chính phủ; họ sắp xếp nhu cầu thị trường về nguồn lực lao động hiện có và cung cấp nhu yếu phẩm cho người lao động.

Chính phủ Singapore tìm ra được điểm yếu của đất nước và vị trí địa lý đặc biệt của nó. Bởi vì dân số của Singapore ít hơn nhiều quốc gia lân cận, vì vậy tình trạng sản xuất chế tạo sẽ được thay thế bởi các quốc gia châu Á khác như là Indonesia, Việt Nam, Trung Quốc... Cũng vì vậy, các quốc gia châu Á khác phải cung cấp giá tương đối rẻ và nguồn lao động nhiều hơn cũng như các sản phẩm tươi phải được khai khác. Vì vậy, Singapore bị lâm vào con đường nguy hiểm. Tuy nhiên, chính phủ Singapore đã thông qua một tầm nhìn đặc biệt hơn vể sự phân chia quốc tế về người lao động; Singapore đã tự đặt chính phủ là thành phố "địa cầu" của vùng Đông Nam Á. Dựa theo "thành phố địa cầu" của Saskia Sassen, chúng là những thành phố khi mà chúng sẽ tham gia vào mạng lưới toàn cầu hóa và chúng là kết quả của sự tích hợp giữa đô thị hóa và toàn cầu hóa (Hack, Margolin and Delaye, 2010).[24]

Hàn Quốc

Hàn Quốc đã đạt được tốc độ phát triển kinh tế nhanh kể từ khi kết thúc chiến tranh Triều Tiên(1950~1953). Giống như với những "người công nghiệp hóa chậm" (Amsden, 1989) như là Đài Loan, kinh tế Hàn Quốc được dẫn dắt bởi bộ máy quan liêu cầm quyền và điều tiết thị trường.[6]

Chính phủ Hàn Quốc bổ sung nhiều phương sách kinh tế nhằm theo đuổi sự gia tăng xuất khẩu. Hàn Quốc vào những năm 1960 bị thiếu thụt vốn và cơ sở kỹ thuật, vì vậy chỉ có nhân công lương rẻ là điều mang tính cạnh tranh duy nhất ở Hàn Quốc.[6] Vì vậy, Hàn Quốc lần đầu thâm nhập vào thị trường toàn cầu với nhân công giá rẻ trong lĩnh vực công nghiệp nhẹ như là công nghiệp tóc giả và vải bông vào những năm 50s~60s. Chính sách công nghiệp Hàn Quốc tiến tới công nghiệp nặng và hóa học vào những năm 70 và 80, đồng thời huy động nguồn tài chính nhà nước cho sự tăng mạnh của doanh nghiệp trong sản xuất thép và lĩnh vực đóng tàu.[25]

Trong những giai đoạn phát triển này, chính phủ chấp hành nhiều đơn giảm thiểu số lượng ngành công nghiệp. Cho vay dài hạn và tín dụng được ưa chuộng hơn ở thị trường toàn cầu, bằng cách này mà tăng mạnh xuất khẩu. Tỷ giá hối đoái thường được điều chỉnh để khuyến khích xuất khẩu hoặc nhập khẩu nguyên liệu tươi với giá rẻ. Bởi vì sự giảm xuống xuất khẩu và được điều chỉnh bởi chính phủ, tỉ giá ở doanh nghiệp Hàn Quốc chuyển hướng ra khỏi thị trường cân bằng. Sự can thiệp của nhà nước được gọi là "tính toán làm sai tỉ giá"(Amsden, 1989), có nghĩa là giá cả bị cố ý làm trệch hướng khỏi giá ‘đúng’, trong khi giá đúng ở thị trường cân bằng. Những nhóm doanh nghiệp lớn được chọn để hỗ trợ và đầu tư bởi chính phủ, theo cách đó mà thành lập mối quan hệ kinh tế và chính trị thân thiết. Một vài nhóm như vậy phát triển thành những phần lớn của tổng sản lượng quốc gia (GNP) và trở thành Chaebols.[6]

Thu nhập bình quân đầu người tăng từ $876 vào năm 1950 đến $22,151 vào năm 2010. Sản xuất công nghiệp ở Hàn Quốc là 9% vào năm 1953 nhưng chạm 38% vào năm 2013. Hàn Quốc đầu tiên thực hiện mô hình công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu (ISI) nhưng sau đó đổi hình mô hình chiến thuật tăng trưởng nhà nước kiến tạo. Hàn Quốc sau khi giành độc lập vào năm 1945 dẫn đến chấm dứt quan hệ kinh tế với Nhật Bản khi mà cả hai đều khó dựa vào nhau. Trong lúc chiến tranh Triều Tiên, đất nước bị tàn phá lẫn về thể chất và tinh thần. Sau chiến tranh Triều Tiên, Hàn Quốc tập trung vào xuất khẩu các sản phẩm quan trọng là cây trồng, khoáng sản trong khi nhập khẩu hàng hóa chế tạo từ Hoa Kỳ. Trong thời kỳ đầu của ISI, công nghiệp Hàn Quốc tương đối thành công và có một lượng người tiêu dùng nhỏ (Charles, 1975).[26] Hàn Quốc cuối cùng tập trung vào khuynh hướng xuất khẩu qua sự can thiệp trực tiếp của chính phủ. Nhà nước Hàn Quốc có nhiều sự tự trị trong điều tiết kinh tế, nhà nước đã tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi cho sự tăng trưởng kinh tế nhanh, ví dụ, nhà nước cung cấp khoản vay dài hạn cho doanh nghiệp với tính cạnh tranh cao trong thị trường thế giới, khi mà cuối cùng gia tăng lĩnh vực xuất khẩu (Chibber, 2014).[27] Dưới sự lãnh đạo của Park Chung Hee, Bộ Quy Hoạch Kinh Tế (EPB) của Hàn Quốc được thành lập vào năm 1960 đã thống nhất sự chia cắt công nghiệp trước đây và tạo nên quyền tập trung của nhà nước.

Hàn Quốc được gọi là "Bốn con rồng nhỏ của châu Á" hoặc Bốn con hổ châu Á với sự tăng trưởng kinh tế dễ thấy (Ba nước khác là Đài Loan, Hồng Kông và Singapore).[28] Thu nhập bình quân đầu người ở Hàn Quốc vào năm 1980 là $1,778.5, khi mà chỉ là một phần nhỏ của Nhật Bản ($9,307.8). Vào năm 2014, thu nhập bình quân đầu người ở Hàn Quốc là $25,977.0, cho thấy sự tăng trưởng mạnh trong suốt thập kỷ qua.[29]

Việt Nam

Tại Việt Nam, mô hình nhà nước kiến tạo phát triển đang được xem có thể là sự lựa chọn phù hợp cho Việt Nam[30]. Việt Nam đang cố gắng làm sáng tỏ nội dung của mô hình này, tại sao các nước Đông Á lại công nghiệp hóa nhanh chóng bằng mô hình này để áp dụng vào Việt Nam. Nhà nước Việt Nam đã có những đổi mới bước đầu trong hoạt động của mình hướng theo mô hình nhà nước kiến tạo phát triển sau khi họ đã thất bại trong việc công nghiệp hóa đất nước bằng mô hình cũ trong đó khu vực kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo.[31][32][33]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Nhà nước kiến tạo phát triển http://www.odi.org.uk/resources/details.asp?id=566... http://tiasang.com.vn/-dien-dan/Noi-ham-nha-nuoc-k... http://hdll.vn/vi/thong-tin-ly-luan/mo-hinh-nha-nu... http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/bai-noi-ba... http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu--trao-doi/trao... http://tcnn.vn/news/detail/38326/Nha_nuoc_kien_tao... http://tcnn.vn/news/detail/43299/Xay-dung-nha-nuoc... https://archive.org/details/developmentalsta00unse https://archive.org/details/mitijapanesemira00chal https://web.archive.org/web/20080917001448/http://...